Lịch sử hoạt động Courbet_(lớp_thiết_giáp_hạm)

Các hoạt động ban đầu

Lớp Courbet được hoàn tất trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra không đầy một năm, và hoạt động duy nhất được ghi nhận là việc France, có Jean Bart hộ tống, đã đưa Tổng thống của Cộng hòa Pháp, Raymond Poincaré đi viếng thăm chính thức Saint Petersburg, Nga, vào tháng 7 năm 1914.[9] Chúng đang quay trở về nước Nga khi chiến tranh bùng nổ, nhưng đã về đến Pháp mà không đụng độ với tàu chiến Đức.

Chiến tranh Thế giới thứ nhất

Anh và Pháp đã thỏa thuận rằng Hạm đội Pháp sẽ tập trung tại Địa Trung Hải để giữ chân Hạm đội Đế quốc Áo-Hung, và những chiếc trong lớp Courbet đã lên đường sau khi chiến tranh nổ ra. Courbet trở thành soái hạm của Đô đốc Augustin Boué de Lapeyrère, Tư lệnh Hạm đội Địa Trung Hải. Lapeyrère quyết định càn quét ngay vào biển Adriatic gây bất ngờ cho những con tàu Áo đang tiến hành phong tỏa Montenegro. Liên quân Anh-Pháp, trong đó có Jean Bart, đã thành công trong việc cắt ngang và đánh chìm tàu tuần dương bảo vệ Áo-Hung SMS Zenta ngoài khơi Bar vào ngày 16 tháng 8 năm 1914, mặc dù chiếc tàu khu trục theo hộ tống đã tìm cách chạy thoát.[10]

Chúng trải qua hầu hết thời gian còn lại của năm 1914 bắn pháo hỗ trợ cho quân đội Montenegro cho đến khi tàu ngầm Áo-Hung SMU U-12 bắn một quả ngư lôi trúng Jean Bart vào ngày 21 tháng 12 năm 1914 ngoài khơi đảo Sazan. Quả ngư lôi trúng vào phía trước của hầm đạn trước mũi,[2] nhưng chiếc thiết giáp hạm vẫn có thể xoay xở quay trở về Malta bằng chính động lực của mình để sửa chữa, vốn kéo dài đến ba tháng rưỡi. Dù sao, vụ tấn công này đã buộc các thiết giáp hạm phải rút lui về Malta hay Bizerte. Sau khi Pháp chiếm đóng hòn đảo trung lập Corfu của Hy Lạp vào năm 1916, chúng được chuyển lên Corfu và Argostoli, nhưng chỉ có những hoạt động rất giới hạn vì nhiều người trong số thủy thủ đoàn được điều sang các tàu chống tàu ngầm.[11]

Hiện đại hóa

Một đánh giá sau chiến tranh đã liệt kê những yếu kém của chúng như sau:

  • Không có hệ thống kiểm soát hỏa lực cho các khẩu pháo
  • Góc nâng của các khẩu pháo chính không thỏa đáng
  • Bảo vệ chống ngư lôi yếu kém
  • Việc bảo vệ ngang chống đạn pháo bắn tới yếu kém
  • Bảo vệ phòng không thiếu sót
  • Hệ thống động lực đốt than
  • Tổ chức thủy thủ đoàn, phương thức chiếu sáng và truyền mệnh lệnh theo kiểu cũ.[1]

Ngoại trừ France bị đắm năm 1922, những chiếc còn lại được tái trang bị nhiều lần trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến nhằm khắc phục những vấn đề này, cho dù không có một kế hoạch hiện đại hóa toàn diện được vạch ra. Chúng bao gồm việc trang bị hệ thống kiểm soát hỏa lực trên cột buồm ba chân mới, thay thế và bổ sung các máy đo tầm xa bằng những bộ lớn hơn, thay đổi các tháp pháo chính để có thể nâng đến góc 23°, thay thế một phần các nồi hơi đốt than bằng kiểu đốt dầu, thay thế turbine dẫn động trực tiếp bằng kiểu có hộp số, tháo bỏ vỏ giáp mũi tàu để làm giảm trọng lượng phía trước, và bổ sung thêm hỏa lực phòng không hiện đại.[12]

Giữa hai cuộc thế chiến

Vào tháng 4 năm 1919, trong khi giúp vào việc phòng thủ Sevastopol trước lực lượng Bolshevik đang tiến quân, thủy thủ trên các chiếc France và Jean Bart đã làm binh biến, nhưng bị dập tắt khi Phó Đô đốc Jean-Françoise-Charles Amet đồng ý đáp ứng yêu cầu chủ yếu của họ là đưa các con tàu quay trở về nhà. Sau đó 26 thủy thủ của France và ba người của Jean Bart đã bị kết án vì hành động trên, rồi được tha vào năm 1922 như một phần của cuộc thương lượng giữa Thủ tướng Raymond Poincaré và các đảng cánh tả.[13]

Năm 1922, France bị đắm sau khi va phải đá ngầm không được thể hiện trên hải đồ tại vịnh Quiberon lúc nước triều thấp, khiến ba người trong số thủy thủ đoàn thiệt mạng. Jean Bart trải qua đợt hiện đại hóa đầu tiên từ ngày 12 tháng 10 năm 1923 đến ngày 29 tháng 1 năm 1925; rồi một đợt thứ hai từ ngày 7 tháng 8 năm 1929 đến ngày 28 tháng 9 năm 1931. Dù vậy, tình trạng của nó vẫn rất kém ngay cả sau khi được cải tạo, nên nó được giải giáp và trở thành một tàu huấn luyện tại Toulon vào năm 1936. Nó được đổi tên thành Océan vào năm 1937 dành lại cái tên cho chiếc thiết giáp hạm mới Jean Bart (1940) thuộc lớp Richelieu.[14]

Courbet trở thành soái hạm của Phó Đô đốc Charlier từ ngày 6 tháng 6 năm 1919 đến ngày 20 tháng 10 năm 1920. Nó trở thành một tàu huấn luyện tác xạ tại Toulon vào năm 1921, nhưng mắc phải một đám cháy nồi hơi nghiêm trọng vào tháng 6 năm 1923 buộc phải sửa chữa đồng thời được nâng cấp từ tháng 7 năm 1923 đến tháng 4 năm 1924 tại La Seyne-sur-Mer. Courbet còn chịu một đám cháy nồi hơi khác vào tháng 18 năm 1924 và phải vào ụ tàu cho đến hết năm đó, trước khi quay trở lại vai trò tàu huấn luyện tác xạ. Nó được tái trang bị một lần nữa từ tháng 1 năm 1927 đến tháng 1 năm 1931; rồi được chuyển từ tàu huấn luyện tác xạ sang tàu huấn luyện hoa tiêu vào năm 1937, trước khi trải qua đợt tái trang bị cuối cùng trước chiến tranh từ tháng 4 năm 1937 đến tháng 9 năm 1938. Đến năm 1939 nó quay trở lại vai trò tàu huấn luyện tác xạ, nhưng được lệnh đi đến BrestQuiberon cùng với con tàu chị em Paris khi Thế Chiến II nổ ra.[15]

Paris được gửi đến Pula vào ngày 12 tháng 12 năm 1918 để giám sát việc Hạm đội Áo-Hung đầu hàng, nơi nó ở lại cho đến ngày 25 tháng 3 năm 1919. Nó hỗ trợ cho việc đổ bộ binh lính Hy Lạp trong việc chiếm đóng İzmir (Smyrna) từ tháng 5 năm 1919 cho đến khi quay trở về Toulon vào ngày 30 tháng 6. Nó trải qua đợt nâng cấp đầu tiên tại Brest từ tháng 10 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923. Nó hỗ trợ cho việc đổ bộ binh lính Tây Ban Nha lên Al Hoceima vào mùa Hè năm 1925 sau khi người Rif tấn công Morocco thuộc Pháp trong cuộc Chiến tranh Rif thứ ba. Nó đã tiêu diệt các khẩu đội pháo phòng duyên tại đây cho dù phải chịu hư hại nhẹ bởi sáu phát đạn pháo bắn trúng, và đã ở lại đây cho đến tháng 10 như là soái hạm của lực lượng Pháp. Nó được nâng cấp đợt thứ hai từ ngày 16 tháng 8 năm 1927 đến ngày 15 tháng 1 năm 1929 tại Toulon, rồi đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Đội 2 của Phân hạm đội 1 Hải đội Địa Trung Hải cho đến ngày 1 tháng 10 năm 1931 khi nó trở thành một tàu huấn luyện.[15]

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Courbet và con tàu chị em Paris hình thành nên Hải đội 5 vào lúc bắt đầu chiến tranh. Chúng được chuyển sang Đại Tây Dương để tiếp tục các nhiệm vụ huấn luyện mà không bị ảnh hưởng bởi tình hình chiến sự. Cả hai được lệnh của Đô đốc Mord chuyển sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu vào ngày 21 tháng 5 năm 1940, và dàn hỏa lực phòng không của chúng được bổ sung sáu khẩu đội súng máy Hotchkiss 13,2 mm hai nòng và hai súng máy Browning 13,2 mm nòng đơn tại Cherbourg. Courbet được lệnh hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng phòng thủ Cherbourg chống lại Sư đoàn Xe tăng 7 Đức đang tiến quân, và hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Đồng Minh khỏi thị trấn này; trong khi Paris hỗ trợ cho lực lượng phòng thủ Le Havre. Việc thiếu sót một máy bay trinh sát khiến cho chúng không mấy hiệu quả trong vai trò này.[16]

Paris bị hư hại bởi một quả bom Đức vào ngày 11 tháng 6 và phải đi đến Cherbourg để được sửa chữa khẩn cấp đêm hôm đó. Sau đó nó được chuyển đến Brest vào ngày 14 tháng 6 và đã giúp triệt thoái 2.800 khi nó lên đường đi đến Plymouth, Anh Quốc vào ngày 18 tháng 6 với vận tốc chỉ có 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph). Nó bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm giữ vào ngày 3 tháng 7 trong khuôn khổ Chiến dịch Catapult, một kế hoạch của Thủ tướng Anh Winston Churchill nhằm ngăn chặn Hải quân Pháp rơi vào tay người Đức. Nó được sử dụng như một tàu kho trong suốt phần còn lại của chiến tranh, và được Hải quân Ba Lan Tự do sử dụng tạm thời như một tàu trại lính. Nó được chuyển trở lại quyền kiểm soát của Pháp vào tháng 7 năm 1945 và được kéo về Brest vào ngày 21 tháng 8, tiếp tục phục vụ như một tàu kho cho đến khi được xóa đăng bạ vào ngày 21 tháng 12 năm 1955 và bị tháo dỡ một năm sau đó.[17]

Courbet lên đường đi Portsmouth vào ngày 20 tháng 6 và cũng bị chiếm giữ vào ngày 3 tháng 7, được chuyển cho phe Pháp Tự do một tuần sau đó để được sử dụng như một tàu kho và tàu phòng không tại Portsmouth cho đến ngày 31 tháng 3 năm 1941 khi nó được giải giáp. Nó tiếp tục phục vụ như một tàu kho và tàu mục tiêu cho đến khi bị đánh đắm như một đê chắn sóng cho cảng Mulberry vào ngày 9 tháng 7 năm 1944 nhằm sử dụng trong trận Normandy. Nó được tháo dỡ tại chỗ sau chiến tranh.[11]

Jean Bart được giải giáp và trở thành một trường huấn luyện tại Toulon vào năm 1936. Nó tiếp tục ở lại đây trong Thế Chiến II, và đã bị chiếm giữ vào ngày 27 tháng 11 năm 1942, cho dù không bị đánh đắm. Nó được quân Đức sử dụng trong việc thử nghiệm các kiểu đầu đạn lớn cho đến khi bị Đồng Minh đánh chìm vào năm 1944,[4] trước khi được tháo dỡ tại chỗ sau chiến tranh, bắt đầu từ ngày 14 tháng 12 năm 1945.[18]